Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản / Маніфест комуністичної партії — in Vietnamese and Ukrainian. Page 2

Vietnamese-Ukrainian bilingual book

Karl Marx, Friedrich Engels

Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản

Карл Маркс, Фрідріх Енґельс

Маніфест комуністичної партії

Sự tiến bộ của công nghiệp mà giai cấp tư sản là người đại diện mặc nhiên của nó và không đủ sức chống lại nó đem sự đoàn kết cách mạng của công nhân do liên hợp lại mà có, thay cho sự chia rẽ của công nhân do cạnh tranh giữa họ gây nên.

Проґрес промисловості, мимовільним носієм якого, нездатним йому опиратись, є буржуазія, ставить на місце ізоляції робітників в наслідок конкуренції революційне об’єднання їх шляхом асоціації.

Như vậy, cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, chính cái nền tảng trên đó giai cấp tư sản đã sản xuất và chiến hữu sản phẩm của nó, đã bị phá sập dưới chân giai cấp tư sản. Trước hết, giai cấp tư sản sản sinh ra những người đào huyệt chôn chính nó. Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu.

Отже, з розвитком великої промисловості спід ніг буржуазії вибивається сама основа, на якій вона продукує і привласнює собі продукти. Вона продукує передусім своїх власних могильників, її загибель і перемога пролетаріату однаково неминучі.

Phần II. Những người vô sản và những người cộng sản

II. Пролетарі і комуністи

Quan hệ giữa người cộng sản với những người vô sản nói chung như thế nào?

В якому відношенні стоять комуністи до пролетарів взагалі?

Những người cộng sản không phải là một đảng riêng biệt, đối lập với các đảng công nhân khác.

Комуністи не є якась особлива партія, що протиставить себе іншим робітничим партіям.

Họ tuyệt nhiên không có một lợi ích nào tách khỏi lợi ích của toàn thể giai cấp vô sản.

У них нема ніяких інтересів, окремих від інтересів усього пролетаріату.

Họ không đặt ra những nguyên tắc riêng biệt nhằm khuôn phong trào vô sản theo những nguyên tắc ấy.

Вони не виставляють ніяких особливих принципів, за якими вони хотіли б надавати форми пролетарському рухові.

Những người cộng sản chỉ khác với các đảng vô sản khác trên hai điểm:
• Một là, trong các cuộc đấu tranh của những người vô sản thuộc các dân tộc khác nhau, họ đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào dân tộc và chung cho toàn thể giai cấp vô sản;
• Hai là, trong các giai đoạn khác nhau của cuộc đấu tranh giữa vô sản và tư sản, họ luôn luôn đại biểu cho lợi ích của toàn bộ phong trào.

Комуністи відрізняються від усіх інших пролетарських партій лише тим, що, з одного боку, в боротьбі пролетарів різних націй вони виділяють і обстоюють спільні, незалежні від національності інтереси всього пролетаріату; з другого боку, тим, що на різних ступенях розвитку, які проходить боротьба між пролетаріатом і буржуазією, вони завжди є представниками інтересів руху в цілому.

Vậy là về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản.

Отже, на ділі комуністи є найрішучіша частина робітничих партій усіх країн, частина, яка завжди спонукає до дальшого руху вперед усі інші; в теоретичному відношенні вони мають перед рештою маси пролетаріату ту перевагу, що розуміють умови, хід і загальні результати пролетарського руху.

Mục đích trước mắt của những người cộng sản cũng là mục đích trước mắt của tất cả các đảng vô sản khác: tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền.

Найближча мета комуністів є та сама, що й усіх інших пролетарських партій: перетворення пролетаріату в клас, повалення панування буржуазії, завоювання пролетаріатом політичної влади.

Những quan điểm lý luận của những người cộng sản tuyệt nhiên không dựa trên những ý niệm, những nguyên lý do một nhà cải cách thế giới nào phát minh hay phát hiện ra.

Теоретичні положення комуністів аж ніяк не ґрунтуються на ідеях, на принципах, вигаданих або відкритих тим чи іншим обновителем світу.

Những nguyên lý ấy chỉ biểu hiện khái quát của những quan hệ thực tại của một cuộc đấu tranh giai cấp hiện có, của một sự vận động lịch sử đang diễn ra trước mắt chúng ta, việc xoá bỏ những quan hệ sở hữu đã tồn tại trước kia không phải là cái gì đặc trưng vốn có của chủ nghĩa cộng sản.

Вони є тільки загальним виразом фактичних відносин існуючої класової боротьби, історичного руху, що відбувається перед нашими очима. Знищення дотеперішніх майнових відносин не є чимось властивим виключно комунізмові.

Tất cả những quan hệ sở hữu đã trải qua những thay đổi liên tiếp, những cải biến liên tiếp trong lịch sử.

Всі майнові відносини зазнавали постійної історичної заміни, постійних історичних змін.

Chẳng hạn, cách mạng Pháp đã xoá bỏ chế độ sở hữu phong kiến và bênh vực chế độ sở hữu tư sản.

Французька революція, напр., знищила феодальну власність на користь буржуазної.


Те, чим відзначається комунізм, є не знищення власності взагалі, а знищення буржуазної власності.

Nhưng chế độ tư hữu tư sản hiện thời, lại là biểu hiện cuối cùng và đầy đủ nhất của phương thức sản xuất và chiếm hữu sản phẩm dựa trên những đối kháng giai cấp, trên cơ sở những người này bóc lột những người kia

Але сучасна буржуазна приватна власність є останній і найдосконаліший вираз такого виробництва і привласнення продуктів, яке ґрунтується на класових суперечностях, на експлуатації одних другими.

Theo ý nghĩa đó, những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành một luận điểm duy nhất này là: xoá bỏ chế độ tư hữu.

В цьому розумінні комуністи можуть виразити свою теорію одним положенням: знищення приватної власності.

Người ta trách những người cộng sản chúng tôi là muốn xoá bỏ sở hữu do cá nhân mỗi người làm ra, kết quả lao động của cá nhân, sở hữu mà người ta bảo là cơ sở của mọi tự do, mọi hoạt động và mọi sự độc lập của cá nhân.

Нам, комуністам, закидали, ніби ми хочемо знищити особисто надбану, своєю працею здобуту власність; ту власність, яка становить основу всякої особистої свободи, діяльності й самостійності.

Cái sở hữu làm ra, kiếm được một cách lương thiện và do lao động của bản thân tạo ra ! Phải chăng người ta muốn nói đến cái hình thức sở hữu có trước sở hữu tư sản, tức là sở hữu của người tiểu tư sản, của người tiểu nông? Chúng tôi có cần gì phải xoá bỏ cái đó, sự phát triển của công nghiệp đã xoá bỏ và hàng ngày vẫn tiếp tục xoá bỏ cái đó rồi.

Своєю працею здобута, надбана, зароблена власність? Чи говорите ви про дрібноміщанську, дрібноселянську власність, яка передувала власності буржуазній? Нам нема чого її знищувати, розвиток промисловості знищив її і щодня її знищує.

Hay là người ta muốn nói đến chế độ tư hữu tư sản hiện thời.

Чи, може, ви говорите про сучасну буржуазну приватну власність?

Nhưng phải chăng lao động làm thuê, lao động của người vô sản, lại tạo ra sở hữu cho người vô sản? Tuyệt đối không. Nó tạo ra tư bản, tức là cái sở hữu bóc lột lao động làm thuê, cái sở hữu chỉ có thể tăng thêm với điều kiện là phải sản xuất ra lao động làm thuê mới để lại bóc lột lao động làm thuê đó.

Але хіба наймана праця, праця пролетаря, створює йому власність? Аж ніяк. Вона створює капітал, тобто ту власність, яка експлуатує найману працю, власність, яка може збільшуватись тільки при тій умові, що вона породжує нову найману працю, щоб знову її експлуатувати.

Trong hình thái hiện tại của nó, sở hữu vận động trong sự đối lập giữa hai cực: tư bản và lao động. Chúng ta hãy xét hai cực của sự đối lập ấy.

Власність у її нинішній формі рухається в протилежності між капіталом і найманою працею. Розгляньмо обидві сторони цієї протилежності.

Trở thành nhà tư bản có nghĩa là không những chỉ chiếm một địa vị thuần tuý cá nhân, mà còn chiếm một địa vị xã hội trong sản xuất. Tư bản là một sản phẩm tập thể và nó chỉ có thể vận động được là nhờ sự hoạt động chung của nhiều thành viên trong xã hội, xét đến cùng, là nhờ sự hoạt động chung của tất cả các thành viên trong xã hội.

Бути капіталістом — значить займати в виробництві не тільки чисто особисте, але й суспільне становище. Капітал є колективний продукт і може бути приведений у рух тільки спільною діяльністю багатьох членів суспільства, — в кінцевому рахунку тільки спільною діяльністю всіх членів суспільства.

Vậy tư bản không phải là một lực lượng cá nhân, nó là một lực lượng xã hội.

Отже, капітал є не особиста, а суспільна сила.

Cho nên, nếu tư bản biến thành sở hữu tập thể thuộc tất cả mọi thành viên trong xã hội thì đó không phải là một sở hữu cá nhân chuyển thành sở hữu xã hội. Chỉ có tính chất xã hội của sở hữu là thay đổi thôi. Sở hữu mất tính chất giai cấp của nó.

Тому, якщо капітал буде перетворений у колективну, належну всім членам суспільства власність, то це не буде перетворенням особистої власності в суспільну. Зміниться лише суспільний характер власності. Вона втратить свій класовий характер.

Bây giờ chúng ta nói đến lao động làm thuê.

Перейдімо до найманої праці.

Giá cả trung bình của lao động làm thuê là số tiền công tối thiểu, nghĩa là tổng số tư liệu sinh hoạt cần thiết cho công nhân duy trì đời sống với tính cách là công nhân. Cho nên cái mà người công nhân làm thuê chiếm hữu được bằng hoạt động của mình cũng chỉ vừa đủ để tái xuất ra đời sống mà thôi.

Пересічна ціна найманої праці є мінімум заробітної плати, тобто сума засобів існування, необхідних для того, щоб зберегти життя робітника як робітника. Отже, того, що найманий робітник привласнює собі своєю діяльністю, вистачає лише на те, щоб репродукувати його голе життя.

Chúng tôi tuyệt không muốn xoá bỏ sự chiếm hữu cá nhân ấy về những sản phẩm của lao động, cần thiết để tái xuất ra đời sống, vì sự chiếm hữu ấy không đẻ ra một khoản dư nào có thể đem lại một quyền lực chi phối lao động của người khác. Điều chúng tôi muốn, là xoá bỏ tính chất bi thảm của các phương thức chiếm hữu nó khiến cho người công nhân chỉ sống để làm tăng thêm tư bản, và chỉ sống trong chừng mực mà những lợi ích của giai cấp thống trị đòi hỏi.

Ми зовсім не хочемо знищити це особисте привласнення продуктів праці, яке служить для відтворення безпосереднього життя, привласнення, що не залишає ніякого чистого доходу, який міг би дати власть над чужою працею. Ми хочемо тільки знищити злиденний характер цього привласнення, при якому робітник живе лише для того, щоб збільшувати капітал, живе лиш остільки, оскільки цього вимагають інтереси пануючого класу.

Trong xã hội tư sản, lao động sống chỉ là một phương tiện để tăng thêm lao động tích luỹ. Trong xã hội cộng sản, lao động tích luỹ chỉ là một phương tiện để mở rộng, làm phong phú hoặc làm giảm nhẹ cho quá trình sống của những người lao động.

В буржуазному суспільстві жива праця є лише засіб для того, щоб збільшувати нагромаджену працю. В комуністичному суспільстві нагромаджена праця є лише засіб для того, щоб розширювати, збагачувати, полегшувати життьовий процес робітників.

Như vậy, trong xã hội tư sản, quá khứ chi phối hiện tại; còn trong xã hội cộng sản thì chính hiện tại chi phối quá khứ. Trong xã hội tư sản, tư bản có tính độc lập và cá tính, còn cá nhân người lao động lại mất tính độc lập và cá tính.

Отже, в буржуазному суспільстві минуле панує над сучасним, а в комуністичному — сучасне над минулим. В буржуазному суспільстві капітал має самостійність і індивідуальність, тоді як трудящий індивід несамостійний і позбавлений індивідуальності.

Và chính việc xoá bỏ những quan hệ như thế, là việc mà giai cấp tư sản cho là xoá bỏ cá tính và tự do! mà cũng có lý đấy. Vì quả thật vấn đề là phải xoá bỏ cá tính tư sản, tính độc lập tư sản và tự do tư sản.

І знищення цих відносин буржуазія називає знищенням особистості й свободи! І вона має рацію. Справді, мова йде про знищення буржуазної особистості, самостійності й свободи.

Trong khuôn khổ những quan hệ sản xuất tư sản hiện tại thì tự do có nghĩa là tự do buôn bán, tự do mua và bán.

Під свободою в межах теперішніх буржуазних виробничих відносин розуміють свободу торгівлі, свободу купівлі й продажу.

Nhưng nếu buôn bán không còn thì buôn bán tự do cũng không còn nữa. Vả lại, tất cả những luận điệu về tự do buôn bán, cũng như tất cả các lời nói khoa trương khác của các nhà tư sản của chúng ta nói về tự do, nói chung chỉ có ý nghĩa, khi đem đối chiếu với việc buôn bán bị cản trở, với những người thị dân bị nô dịch ở thời trung cổ mà thôi; Những luận điệu và lời nói đó không còn ý nghĩa gì nữa, khi vấn đề đặt ra là chủ nghĩa cộng sản phải xoá bỏ buôn bán, xoá bỏ những quan hệ sản xuất tư sản và xoá bỏ ngay cả giai cấp tư sản nữa.

Але якщо зникає гендлярство, то зникає і вільне гендлярство. Фрази про вільне гендлярство, як і всі інші пишномовні фрази нашої буржуазії про свободу, взагалі мають якийсь сенс тільки у відношенні до невільного гендлярства, до поневоленого середньовічного городянина, а не у відношенні до комуністичного знищення гендлярства, буржуазних виробничих відносин і самої буржуазії.

Các ông hoảng lên, vì chúng tôi muốn xoá bỏ chế độ tư hữu. Nhưng trong xã hội hiện nay của các ông, chế độ tư hữu đã bị xoá bỏ đối với chín phần mười số thành viên của xã hội đó rồi; chính vì nó không tồn tại đối với số chín phần mười ấy, nên nó mới tồn tại được.

Ви обурюєтесь з того, що ми хочемо знищити приватну власність. Але у вашому сучасному суспільстві приватна власність знищена для дев’яти десятих його членів; вона існує якраз тому, що для дев’яти десятих вона не існує.

Như vậy, các ông trách chúng tôi là muốn xoá bỏ một hình thức sở hữu chỉ có thể tồn tại với điều kiện tất yếu là tuyệt đại đa số bị tước mất hết mọi sở hữu.

Отже, ви закидаєте нам, що ми хочемо знищити таку власність, яка передбачає як необхідну умову відсутність власності у величезної більшості суспільства.

Nói tóm loại, ông buộc tội chúng tôi là muốn xoá bỏ sở hữu riêng của các ông. Quả thật, đó chính là điều chúng tôi muốn.

Одним словом, ви закидаєте нам, що ми хочемо знищити вашу власність. Дійсно, ми цього хочемо.

Khi mà lao động không còn có thể biến thành tư bản, thành tiền bạc, thành địa tô, tóm lại, thành quyền lực xã hội có thể biến thành độc quyền được, nói tóm lại, khi mà sở hữu cá nhân không còn có thể biến thành sở hữu tư sản được nữa thì lúc đó, thì các ông tuyên bố rằng cá nhân bị thủ tiêu.

З того моменту, коли праця вже більше не може бути перетворена в капітал, гроші, земельну ренту, коротко кажучи — в суспільну силу, яка може бути монополізована, тобто з того моменту, коли особиста власність не може вже більше перетворюватись у буржуазну, — з цього моменту, заявляєте ви, особа скасована.

Như vậy là các ông thú nhận rằng khi các ông nói đến cá nhân, là các ông chỉ muốn nói đến người tư sản, người tư hữu tư sản mà thôi. Mà cái cá nhân ấy thì chắc chắn cần phải thủ tiêu đi.

Отже, ви признаєтесь, що під особою ви розумієте не кого іншого, як буржуа, буржуазного власника. А ця особа справді повинна бути скасована.

Chủ nghĩa cộng sản không tước bỏ của ai cái khả năng đang chiếm hữu những sản phẩm xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác.

Комунізм ні в кого не віднімає власті привласнювати собі суспільні продукти, він віднімає тільки власть поневолювати собі за допомогою цього привласнення чужу працю.

Người ta còn phản đối lại rằng xoá bỏ chế độ tư hữu thì mọi hoạt động sẽ ngừng lại, thì bệnh lười biếng sẽ phổ biến sẽ ngự trị.

Нам закидали, що із знищенням приватної власності припиниться, мовляв, всяка діяльність і вкорениться загальне ледарство.

Nếu quả như vậy thì xã hội tư sản phải sụp đổ từ lâu rồi do tình trạng lười biếng, vì trong xã hội ấy, những người lao động thì không được hưởng, mà những kẻ được hưởng lại không lao động. Tất cả sự lo ngại chung quy chỉ là luận điệu trùng phức cho rằng không còn tư bản thì cũng không còn lao động làm thuê nữa.

В такому разі буржуазне суспільство давно мусило б загинути від ледарства; бо ті, що в ньому працюють, нічого не набувають, а ті, що в ньому набувають, не працюють. Всі ці побоювання зводяться до тавтолоґії, що немає вже найманої праці, раз уже немає капіталу.

Tất cả những lời phản đối nhằm chống lại phương thức cộng sản chủ nghĩa của sự sản xuất và chiếm hữu những sản phẩm vật chất được tung ra, cũng nhằm chống lại sự sản xuất và chiếm hữu những sản phẩm tinh thần.

Всі закиди, які спрямовуються проти комуністичного способу привласнення і способу виробництва матеріальних продуктів, поширюються так само на привласнення й вироблення продуктів розумової праці.

Nếu đối với người tư sản, sở hữu giai cấp bị thủ tiêu có nghĩa là chính sản xuất cũng bị thủ tiêu, thì đối với họ, văn hoá giai cấp bị thủ tiêu, cũng có nghĩa là văn hoá nói chung bị mất đi.

Подібно до того, як припинення класової власності є для буржуа припиненням самого виробництва, так і припинення класової освіти він ототожнює з припиненням освіти взагалі.

Cái văn hoá mà người tư sản than tiếc là bị tiêu diệt đi đó, thì đối với đại đa số, chỉ là việc biến họ thành vật phụ thuộc vào máy móc mà thôi.

Та освіта, про втрату якої він жаліє, є для величезної більшості перетворенням у машину.

Nếu các ông lấy những quan điểm tư sản của các ông về tự do, về văn hoá, về luật pháp,… làm tiêu chuẩn để xét việc xoá bỏ sở hữu tư sản thì chẳng cần phải tranh cãi với chúng tôi làm gì.

Але не сперечайтеся з нами, оцінюючи знищення буржуазної власності з точки зору ваших буржуазних уявлень про свободу, освіту, право і т. д.

Chính những tư tưởng của các ông là sản phẩm của những quan hệ sản xuất và sở hữu tư sản, cũng như pháp quyền của các ông chỉ là ý chí của giai cấp các ông được đề lên thành luật pháp, cái ý chí mà nội dung là do những điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp các ông quyết định.

Ваші ідеї сами є продукт буржуазних виробничих і майнових відносин, так само як ваше право є лише підвищена в закон воля вашого класу, воля, зміст якої визначений матеріальними умовами життя вашого класу.

Cái quan niệm thiên vị khiến các ông biến những quan hệ sản xuất và quan hệ sở hữu của các ông từ quan hệ lịch sử, mang tính chất nhất thời trong quá trình phát triển của sản xuất thành những quy luật vĩnh cửu của tự nhiên và lý trí, — quan niệm ấy, các ông cũng tán đồng với tất cả các giai cấp thống trị trước đây và hiện không còn nữa. Điều mà các ông nhận thức được đối với sở hữu thời cổ đại hay sở hữu phong kiến thì đối với sở hữu tư sản, các ông lại không giám nhận thức nữa.

Небезстороннє уявлення, завдяки якому ви перетворюєте ваші виробничі і майнові відносини з відносин історичних, в ході розвитку виробництва минаючих, у вічні закони природи й розуму, — це уявлення ви поділяєте з усіма загиблими панівними класами. Те, що ви розумієте, коли мова йде про античну власність, те, що ви розумієте, коли мова йде про феодальну власність, ви не можете вже зрозуміти, коли мова йде про власність буржуазну.

Xoá bỏ gia đình! Ngay cả những người cấp tiến cực đoan nhất cũng phẫn nộ về cái ý định xấu xa ấy của những người cộng sản.

Скасування сім’ї! Навіть крайні радикали обурюються проти цього ганебного наміру комуністів.

Gia đình tư sản hiện nay dựa trên cơ sở nào? Dựa trên tư bản, trên lợi nhuận cá nhân. Gia đình dưới hình thái hoàn toàn phát triển của nó, chỉ tồn tại đối với giai cấp tư sản thôi, nhưng nó lại kèm theo sự bắt buộc phải thủ tiêu mọi gia đình đối với người vô sản và kèm theo nạn mãi dâm công khai.

На чому основана сучасна, буржуазна сім’я? На капіталі, на приватній наживі. В цілком розвиненому вигляді вона існує тільки для буржуазії; але вона знаходить своє доповнення у вимушеній безсімейності пролетарів і в публічній проституції.

Gia đình tư sản dĩ nhiên là sẽ tiêu tan cùng với cái vật bổ sung đó của nó, và cả hai cái đó đều mất đi cùng với sự tan biến của tư bản .

Буржуазна сім’я природно відпадає разом з відпадінням цього її доповнення; і те, і друге зникає разом із зникненням капіталу.

Các ông trách chúng tôi muốn xoá bỏ hiện tượng cha mẹ bóc lột con cái chăng? tội ấy, chúng tôi xin nhận.

Ви закидаєте нам, що ми хочемо знищити експлуатацію дітей їх батьками? В цьому злочині ми признаємось.

Nhưng các ông lại bảo rằng chúng tôi muốn thủ tiêu những mối quan hệ thân thiết nhất đối với con người, bằng cách đem giáo dục xã hội thay thế cho các giáo dục gia đình.

Але ми знищуємо, кажете ви, найніжніші відносини, ставлячи на місце домашнього виховання суспільне.

Thế nền giáo dục của các ông, chẳng phải cũng do xã hội quyết định đó sao? chẳng phải do những quan hệ xã hội trong xác ông nuôi dạy con cái các ông, do sự can thiệp trực tiếp hay gián tiếp của xã hội thông qua nhà trường,… quyết định gì?

А хіба й ваше виховання не визначається суспільством? Хіба воно не визначається суспільними відносинами, в яких ви виховуєте, не визначається безпосереднім чи посереднім втручанням суспільства через школу і т. д.?

Người cộng sản không bịa đặt ra tác động xã hội đối với giáo dục, họ không chỉ thay đổi tính chất của sự giáo dục ấy và kéo giáo dục ra khỏi ảnh hưởng của giai cấp thống trị mà thôi.

Комуністи не вигадують впливу суспільства на виховання; вони тільки міняють його характер, вони виривають виховання спід впливу пануючого класу.

Đại công nghiệp phát triển càng phá huỷ mọi mối quan hệ gia đình trong giai cấp vô sản và càng biến trẻ em thành những món hàng mua bán, những công cụ lao động đơn thuần, thì những lời huênh hoang của giai cấp tư sản về gia đình và giáo dục, về những mối quan hệ thân thiết gắn bó con cái với cha mẹ, lại càng trở nên ghê tởm.

Буржуазні балачки про сім’ю і виховання, про ніжні відносини між батьками й дітьми стають тим огиднішими, чим більше в наслідок великої промисловості розриваються для пролетарів усі сімейні зв’язки і діти перетворюються в прості предмети торгівлі і в знаряддя праці.

Nhưng bọn cộng sản các anh, muốn thực hành chế độ cộng thê, toàn thể giai cấp tư sản đồng thanh tru tréo lên như vậy.

Але ви, комуністи, хочете запровадити спільність жінок, — кричить нам хором уся буржуазія.

Đối với người tư sản, vợ hắn chẳng qua chỉ là một công cụ sản xuất. Cho nên nghe nói công cụ sản xuất phải được đem dùng chung thì tất nhiên là hắn kết luận rằng chính đàn bà rồi cũng phải chịu cái số phận chung là bị xã hội hoá.

Буржуа дивиться на свою дружину як на просте знаряддя виробництва. Він чує, що знаряддя виробництва мають використовуватися спільно, і, звичайно, не може собі уявити нічого іншого, як те, що ця сама доля — бути спільними — спіткає і жінок.

Thậm chí hắn không ngờ rằng vấn đề ở đây, chính là kéo đàn bà ra khỏi vai trò hiện nay của họ là một công cụ sản xuất đơn thuần.

Він і не підозріває, що мова йде саме про те, щоб скасувати становище жінок як простих знарядь виробництва.

Vả lại, không có gì lố bịch bằng ghê sợ quá đạo đức của những nhà tư sản với cái gọi là cộng thê chính thức do những người cộng sản chủ trương. Những người cộng sản không cần phải áp dụng chế độ cộng thê, chế độ ấy hầu như đã luôn luôn tồn tại.

Зрештою, немає нічого смішнішого, як високоморальний жах наших буржуа з приводу нібито офіціальної спільності жінок у комуністів. Комуністам нема чого заводити спільність жінок, вона майже завжди існувала.

Các ngài tư sản của chúng ta chưa thoả mãn là đã sẵn có vợ và con gái của vô sản để dùng, đó là chưa kể chế độ mãi dâm công khai, các ngài ấy còn lấy việc cắm sừng lẫn nhau làm một thú vui đặc biệt.

Наші буржуа, не задовольняючись тим, що мають у своєму розпорядженні жінок і дочок своїх робітників, не кажучи вже про офіціальну проституцію, знаходять головну втіху в тому, щоб спокушати своїх шлюбних жінок один у одного.

Hôn nhân của giai cấp tư sản thật ra là chế độ cộng thê. Có chăng người ta chỉ có thể buộc tội những người cộng sản là họ tuồng như muốn đem một chế độ cộng thê công khai và chính thức thay cho chế độ cộng thê được che đậy một cách giả nhân giả nghĩa mà thôi.

Буржуазний шлюб є в дійсності спільність шлюбних жінок. Комуністам можна було б закинути хіба тільки те, що вони хочуть запровадити замість лицемірно прихованої офіціальну, відкриту спільність жінок.

Nhưng với sự xoá bỏ những quan hệ sản xuất hiện tại thì dĩ nhiên là chế độ cộng thê do những quan hệ sản xuất ấy đẻ ra, tức là chế độ mãi dâm chính thức và không chính thức, cũng sẽ biến mất.

Зрештою, само собою зрозуміло, що із знищенням теперішніх виробничих відносин зникне також і спільність жінок, що випливає з них, тобто офіціальна і неофіціальна проституція

Ngoài ra, người ta còn buộc tội những người cộng sản là muốn xoả bỏ tổ quốc, xoá bỏ dân tộc.

Далі комуністам закидають, ніби вони хочуть скасувати батьківщину, національність.

Công nhân không có tổ quốc. Người ta không thể cướp của họ cái mà họ không có. Vì giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình giành dân tộc, tuy hoàn toàn không phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu.

Робітники не мають батьківщини. В них не можна відняти того, чого в них немає. Тому що пролетаріат насамперед мусить завоювати собі політичне панування, підвищитися до становища національного класу, сам сконституюватись як нація, він сам поки ще національний, хоч і зовсім не в буржуазному розумінні.

Với sự phát triển của giai cấp tư sản, tự do buôn bán, thị trường thế giới sự đồng đều của sản xuất công nghiệp và những điều kiện sinh hoạt thích ứng với nền sản xuất ấy thì những sự cách biệt dân tộc và những sự đối lập giữa nhân dân các nước cũng ngày càng mất đi.

Національна відособленість і протилежності народів зникають все більше й більше вже з розвитком буржуазії, свободою торгівлі, світовим ринком, одноманітністю промислового виробництва і відповідних до нього життьових умов.

Sự thống trị của giai cấp vô sản sẽ càng làm cho những sự cách biệt và những sự đối lập mất đi nhanh hơn. Hành động chung của giai cấp vô sản, ít ra là ở những nước văn minh, là một trong những điều kiện đầu tiên cho sự giải phóng của họ.

Панування пролетаріату ще більше прискорить їх зникнення. Об’єднана діяльність, принаймні цивілізованих країн, є одна з перших умов його визволення.

Hãy xoá bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xoá bỏ.

В тій мірі, в якій буде знищена експлуатація одного індивіда другим, буде знищена і експлуатація однієї нації другою.

Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng thời mất theo.

Разом із протилежністю класів всередині нації відпаде і вороже ставлення націй одної до одної.

Còn những lời buộc tội chủ nghĩa cộng sản, xuất phát từ những quan điểm tôn giáo, triết học và nói chung là xuất phát từ những quan điểm tư tưởng thì không đáng phải xét kỹ.

Обвинувачення проти комунізму, які висуваються з реліґійних, філософських і взагалі ідеолоґічних точок зору, не заслуговують докладного розгляду.

Liệu có cần phải sáng suốt lắm thì mới hiểu những tư tưởng, những qua điểm và những khái niệm của con người, tóm lại là ý thức của con người, đều thay đổi cùng với mọi sự thay đổi xảy ra trong điều kiện sinh hoạt, trong quan hệ xã hội, trong đời sống xã hội của con người không?

Чи потрібна глибока прозірливість, щоб зрозуміти, що разом із життьовими умовами людей, з їх суспільними відносинами, з їх суспільним буттям змінюються також і їх уявлення, погляди й поняття, одним словом — і їх свідомість?

Lịch sử tư tưởng chứng minh cái gì, nếu không phải là chứng minh rằng sản xuất tinh thần cũng biến đổi theo sản xuất vật chất? Những tư tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng chỉ là những tư tưởng của giai cấp thống trị.

Що ж інше доводить історія ідей, як не те, що розумове виробництво перетворюється разом з матеріальним? Пануючими ідеями будьякого часу завжди були тільки ідеї пануючого класу.

Khi người ta nói đến những tư tưởng đang cách mạng hoá cả một xã hội thì như thế là người ta chỉ nêu ra sự thật này là trong lòng xã hội cũ, những yếu tố của một xã hội mới đã hình thành là sự tan rã của những tư tưởng cũng đi đôi với sự tan rã của những điều kiện sinh hoạt cũ.

Говорять про ідеї, які революціонізують все суспільство; цим висловлюють лише той факт, що всередині старого суспільства утворились елементи нового, що рука в руку з розкладом старих життьових умов іде й розклад старих ідей.

Khi thế giới cổ đại đang suy tàn thì những tôn giáo cũ bị đạo Cơ Đốc đánh bại. Vào thế kỷ XVIII, khi tư tưởng của đạo Cơ Đốc nhường chỗ cho những tư tưởng tiến bộ thì xã hội phong kiến đang giao chiến trận cuối cùng với giai cấp tư sản, lúc bấy giờ là giai cấp cách mạng. Những tư tưởng về tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo chẳng qua chỉ nói lên thời kỳ thống trị của cạnh trạnh trong tự do lĩnh vực tri thức mà thôi.

Коли стародавній світ ішов до загибелі, стародавні реліґії були переможені христіанською реліґією. Коли христіанські ідеї в XVIII столітті були переможені просвітними ідеями, феодальне суспільство вело свою смертельну боротьбу з революційною тоді буржуазією. Ідеї свободи совісті й реліґії виражали лише панування вільної конкуренції в сфері совісті.

Có người sẽ nói: “Cố nhiên là những quan niệm tôn giáo, đạo đức, triết học, chính trị, pháp quyền,… đã biến đổi trong tiến trình phát triển lịch sử. Nhưng tôn giáo, đạo đức, triết học, chính trị, pháp quyền, vẫn luôn luôn được bảo tồn qua những biến đổi không ngừng ấy.

«Але», скажуть нам, «реліґійні, моральні, філософські, політичні, правові ідеї і т. д. звичайно, змінювалися в ході історичного розвитку. Реліґія, мораль, філософія, політика, право завжди зберігались у цій зміні.

Vả lại, còn có những chân lý vĩnh cửu như tự do, công lý,… là những cái chung cho tất cả mọi chế độ xã hội. Thế mà chủ nghĩa cộng sản lại xoá bỏ những chân lý vĩnh cửu, xoá bỏ tôn giáo và đạo đức chứ không đổi mới hình thức của tôn giáo và đạo đức; làm như thế là nó mâu thuẫn với toàn bộ tiến trình phát triển lịch sử trước kia”.

До того ж, існують вічні істини, як от свобода, справедливість і т. д., спільні всім становищам суспільства. А комунізм скасовує вічні істини, він скасовує реліґію, мораль, замість того щоб оновити їх; отже, він суперечить усьому попередньому історичному розвитку».

Lời buộc tội ấy rút cục lại là gì? Lịch sử của toàn bộ các xã hội, từ trước đến nay, đều diễn ra trong những đối kháng giai cấp, những đối kháng mang hình thức khác nhau tuỳ từng thời đại.

До чого зводиться це обвинувачення? Історія всього дотеперішнього суспільства рухалася в класових протилежностях, які в різні епохи по-різному складалися.

Nhưng dù những đối kháng ấy mang hình thức nào đi nữa thì hiện tượng một bộ phận này của xã hội bóc lột một bộ phận khác cũng vẫn là hiện tượng chung cho tất cả các thế kỷ trước kia.

Але хоч би яких вони набирали форм, експлуатація однієї частини суспільства другою є факт, спільний усім минулим століттям.

Vậy không có gì ngạc nhiên khi thấy rằng ý thức xã hội của mọi thế kỷ, mặc dù có muôn màu muôn vẻ và hết sức khác nhau, vẫn vận động trong một hình thức nào đó, trong những hình thức ý thức chỉ hoàn toàn tiêu tan khi hoàn toàn không còn có đối kháng giữa giai cấp nữa.

Тим то недивно, що суспільна свідомість усіх століть, не зважаючи на всю різноманітність і відмінність, рухається в певних спільних формах, у формах свідомості, які цілком зникнуть лише з цілковитим зникненням протилежності класів.

Cách mạng cộng sản chủ nghĩa là sự đoạn tuyệt triệt để nhất với những quan hệ sở hữu kế thừa của quá khứ; không có gì đáng ngạc nhiên khi thấy rằng trong tiến trình phát triển của nó, nó đoạn tuyệt một cách triệt để nhất với những tư tưởng kế thừa của quá khứ.

Комуністична революція є найрадикальніший розрив з успадкованими від минулого майновими відносинами; недивно, що в ході її розвитку відбувається найрадикальніший розрив з успадкованими від минулого ідеями.

Nhưng hãy gác lại những lời giai cấp tư sản phản đối chủ nghĩa cộng sản.

Облишмо, однак, закиди буржуазії проти комунізму.

Như chúng ta đã thấy trên kia, bước thứ nhất trong cuộc cách mạng công nhân là giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị, là giành lấy dân chủ.

Ми вже бачили вище, що першим кроком у робітничій революції є перетворення пролетаріату у пануючий клас, завоювання демократії.

Giai cấp vô sản sẽ dùng sự thống trị chính trị của mình để từng bước một đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, để tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước, tức là trong tay giai cấp vô sản đã được tổ chức thành giai cấp thống trị, và để tăng thật nhanh số lượng những lực lượng sản xuất.

Пролетаріат використає своє політична панування для того, щоб крок за кроком вирвати у буржуазії весь капітал, централізувати всі знаряддя виробництва в руках держави, тобто орґанізованого в пануючий клас пролетаріату, і якомога швидше збільшити масу продуктивних сил.

Cố nhiên, điều đó lúc đầu chỉ có thể thực hiện bằng cách xâm phạm một cách chuyên chế vào sở hữu và những quan hệ sản xuất tư sản, nghĩa là bằng những biện pháp, mà về mặt kinh tế thì hình như không được đầy đủ và không có hiệu lực, nhưng trong tiến trình vận động, những biện pháp ấy sẽ vượt quá bản thân chúng và là thủ đoạn không thể thiếu để đảo lộn toàn bộ phương thức sản xuất.

Це може, звичайно, статися спочатку лише за допомогою деспотичних втручань у право власності і в буржуазні виробничі відносини, тобто за допомогою заходів, які економічно здаються недостатніми і неспроможними, але які в ході руху переростають самих себе і є неминучі як засіб для перевороту в усьому способі виробництва.

Trong những nước khác nhau, những biện pháp ấy dĩ nhiên sẽ khác nhau rất nhiều.

Ці заходи, звичайно, будуть в різних країнах різні.

Nhưng đối với những nước tiên tiến nhất thì những biện pháp sau đây sẽ có thể áp dụng khá phổ biến:

Проте, в найбільш передових країнах можна буде майже повсюди вжити таких заходів:

1. Tước đoạt sở hữu ruộng đất và trao nộp tô vào quỹ chi tiêu của nhà nước.

1. Експропріація земельної власності і повернення земельної ренти на державні видатки.

2. áp dụng thuế luỹ tiến cao.

2. Високий проґресивний податок.

3. Xoá bỏ quyền thừa kế

3. Скасування права спадкування.

4. Tịch thu tài sản của tất cả những kẻ lưu vong và của tất cả những kẻ phiến loạn

4. Конфіскація власності всіх еміґрантів і бунтівників.

5. Tập trung tín dụng vào tay nhà nước thông qua một ngân hàng quốc gia với tư bản của nhà nước và ngân hàng này sẽ nắm độc quyền hoàn toàn.

5. Централізація кредиту в руках держави за допомогою національного банку з державним капіталом і виключною монополією.

6. Tập trung tất cả các phương tiện vận tải vào trong tay nhà nước.

6. Централізація всього транспорту в руках держави.

7. Tăng thêm số công xưởng nhà nước và công cụ sản xuất; khai khẩn đất đai để cấy cầy và cải tạo ruộng đất trong một kế hoạch chung.

7. Збільшення числа державних фабрик, знарядь виробництва, перетворення земель в орні і поліпшення їх якості за загальним планом.

8. Thực hành nghĩa vụ lao động đối với tất cả mọi người, tổ chức các đạo quân công nghiệp, đặc biệt là nông nghiệp.

8. Однакова обов’язковість праці для всіх, утворення промислових армій, особливо для землеробства.

9. Kết hợp nông nghiệp, thi hành những biện pháp nhằm làm mất dần sự khác biệt thành thị và nông thôn.

9. З’єднання землеробства з промисловістю, сприяння поступінному усуненню протилежності між містом і селом.

10. Giáo dục công cộng và không mất tiền cho tất cả các trẻ em. Xoá bỏ việc sử dụng trẻ em làm trong các khu công xưởng như hiện nay. Kết hợp giáo dục với sản xuất vật chất,…

10. Громадське і безплатне виховання всіх дітей. Усунення фабричної праці дітей в її нинішній формі. З’єднання виховання з матеріальним виробництвом і т. д. і т. д.

Khi những đối kháng giai cấp đã mất đi trong tiến trình của sự phát triển và toàn bộ sản xuất đã tập trung trong tay những cá nhân đã liên hợp lại với nhau thì quyền lực công cộng cũng mất tính chất chính trị của nó.

Коли в ході розвитку зникнуть класові відміни і все виробництво зосередиться в руках асоційованих індивідів, тоді суспільна влада втратить свій політичний характер.

Quyền lực chính trị, theo đúng nghĩa của nó, là bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp một giai cấp khác.

Політична влада у власному розумінні слова є орґанізована сила одного класу для придушення другого.

Nếu giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, nhất định phải tự tổ chức thành giai cấp, nếu giai cấp vô sản thông qua con đường cách mạng mà trở thành giai cấp thống trị và với tư cách là giai cấp thống trị, nó dùng bạo lực tiêu diệt những quan hệ sản xuất cũ, thì đồng thời với việc tiêu diệt những quan hệ sản xuất ấy, nó cũng tiêu diệt luôn cả những điều kiện tồn tại của sự đối kháng giai cấp, nó tiêu diệt những giai cấp nói chung và cũng do đấy, tiêu diệt cả sự thống trị của chính nó với tư cách là một giai cấp.

Якщо пролетаріат у боротьбі проти буржуазії неодмінно об’єднується в клас, якщо шляхом революції він перетворює себе в пануючий клас і як пануючий клас насильно знищує старі виробничі відносини, то разом з цими виробничими відносинами він знищує умови існування класової протилежності, класи взагалі, а тим самим і своє власне панування як класу.

Thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người.

Місце старого буржуазного суспільства з його класами та класовими протилежностями займає асоціація, в якій вільний розвиток кожного є умовою вільного розвитку всіх.

Advertisement