Belorussian-Vietnamese bilingual book
III. Сацыялістычная і камуністычная літаратура
Phần III. Văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa
1. Рэакцыйны сацыялізм
I. Chủ nghĩa xã hội phản động
a) Феадальны сацыялізм
a) Chủ nghĩa xã hội phong kiến
Французская і англійская арыстакратыя па свайму гістарычнаму становішчу была заклікана да таго, каб пісаць памфлеты супраць сучаснага буржуазнага грамадства.
Do địa vị lịch sử của họ, quý tộc Pháp và Anh đã có sứ mệnh viết những bài văn châm biếm đả kích xã hội tư sản hiện đại.
У французскай ліпеньскай рэвалюцыі 1830 г. і ў англійскім руху на карысць парламенцкай рэформы ненавісны выскачка яшчэ раз нанёс ёй паражэнне. Аб сур’ёзнай палітычнай барацьбе не магло быць больш і гаворкі.
Trong cuộc Cách mạng Pháp hồi tháng 7 năm 1830, trong phong trào cải cách ở Anh, các giai cấp quý tộc ấy, một lần nữa, lại ngã gục dưới những đòn đả kích của những kẻ bạo phát đáng ghét.
Ёй заставалася толькі літаратурная барацьба. Але і ў галіне літаратуры старыя фразы часоў Рэстаўрацыі сталі ўжо немагчымыя. Каб выклікаць спачуванне, арыстакратыя павінна была зрабіць выгляд, што яна ўжо не клапоціцца аб сваіх уласных інтарэсах і складае свой абвінаваўчы акт супраць буржуазіі толькі ў інтарэсах эксплуатуемага рабочага класа.
Đối với quý tộc thì không thể còn có vấn đề đấu tranh chính trị thật sự được nữa, họ chỉ có cách đấu tranh bằng văn học mà thôi. Nhưng ngay cả trong lĩnh vực văn học cũng không thể dùng cái luận điệu cũ rích của thời kỳ phục tích được nữa. Muốn gây được thiện cảm, quý tộc làm ra vẻ không nghĩ đến lợi ích riêng của mình và lập bản cáo trạng lên án giai cấp tư sản, chỉ là vì lợi ích của giai cấp công nhân bị bóc lột mà thôi.
Яна рабіла сабе задавальненне тым, што выдумляла пасквілі на свайго новага ўладара і шаптала яму на вуха больш-менш злавесныя прароцтвы.
Làm như thế, họ tự giành cho họ cái điều vui thú làm vè chế diễu người chủ mới của họ và ri rỉ bên tai người này những lời tiên tri không tốt lành này khác.
Так узнік феадальны сацыялізм: напалавіну пахавальная песня — напалавіну пасквіль, напалавіну адгалосак мінулага — напалавіну пагроза будучага, які падчас паражае буржуазію ў самае сэрца сваім горкім, дасціпным, з’едлівым прыгаворам, але які заўсёды стварае камічнае ўражанне поўнай няздольнасцю зразумець ход сучаснай гісторыі.
Chủ nghĩa xã hội phong kiến đã ra đời như thế đó là một mớ hỗn hợp những lời ai oán với những lời mỉa mai dư âm của dĩ vãng và tiếng đe doạ cuả tương lai. Tuy đôi khi lời công kích chua chát sâu cay hóm hỉnh của nó đập đúng vào tim gan của giai cấp tư sản, nhưng việc nó hoàn toàn bất lực không thể hiểu được tiến trình của lịch sử hiện đại, luôn luôn làm cho người ta cảm thấy buồn cười.
Арыстакратыя размахвала жабрацкай торбай пралетарыяту як сцягам, каб павесці за сабою народ. Але кожны раз, калі ён ішоў за ёю, ён заўважаў на яе заду старыя феадальныя гербы і разбягаўся з гучным і непачцівым рогатам.
Các ngài quý tộc đã giương cái bị ăn mày của kẻ vô sản lên làm cờ để lôi kéo nhân dân theo họ, nhưng nhân dân vừa chạy lại thì trông thấy ngay những phù hiệu phong kiến cũ đeo sau lưng họ, thế là nhân dân liền tản đi và phá lên cười một cách khinh bỉ.
Разыгрываннем гэтай камедыі займалася частка французскіх легітымістаў і «Маладая Англія».
Một bộ phận của phái chính thống Pháp và phái “Nước Anh trẻ” đã diễn tấn hài kịch ấy.
Калі феадалы даказваюць, што іх спосаб эксплуатацыі быў іншага роду, чым буржуазная эксплуатацыя, то яны забываюць толькі, што яны эксплуатавалі пры зусім іншых, цяпер ужо аджыўшых, акалічнасцях і ўмовах.
Khi những người bênh vực chế độ phong kiến chứng minh rằng phương thức bóc lột phong kiến không giống phương thức bóc lột của giai cấp tư sản thì họ chỉ quên có một điều là chế độ phong kiến bóc lột trong hoàn cảnh và những điều kiện khác hẳn và hiện đã lỗi thời.
Калі яны ўказваюць, што пры іх панаванні не існавала сучаснага пралетарыяту, то забываюць, што якраз сучасная буржуазія была неабходным вынікам іх грамадскага ладу.
Khi họ vạch ra rằng dưới chế độ phong kiến, không có giai cấp vô sản hiện đại thì họ chỉ quên có một điều là giai cấp tư sản chính là một sản phẩm tất nhiên của chế độ xã hội của họ.
Між іншым, яны так мала ўтойваюць рэакцыйны характар сваёй крытыкі, што іх галоўнае абвінавачанне супраць буржуазіі іменна ў тым і заключаецца, што пры яе панаванні развіваецца клас, які ўзарве ў паветра ўвесь стары грамадскі парадак.
Vả lại, họ rất ít che đậy tính chất phản động của những lời chỉ chích của họ, cho nên lời lẽ chủ yếu mà họ dùng để buộc tội giai cấp tư sản thì chính là cho rằng dưới sự thống trị của nó, giai cấp tư sản đảm bảo sự phát triển cho một giai cấp sẽ làm nổ tung toàn bộ trật tự xã hội cũ.
Яны значна больш папракаюць буржуазію за тое, што яна параджае рэвалюцыйны пралетарыят, чым за тое, што яна параджае пралетарыят наогул.
Họ buộc tội giai cấp tư sản đã hy sinh ra một giai cấp vô sản cách mạng, nhiều hơn là buộc tội giai cấp đó đã sinh ra giai cấp vô sản nói chung.
Таму ў палітычнай практыцы яны прымаюць удзел ва ўсіх насільных мерапрыемствах супраць рабочага класа, а ў штодзённым жыцці, насуперак усёй сваёй напышлівай фразеалогіі, не прапускаюць выпадку падабраць залатыя яблыкі і прамяняць вернасць, любоў, гонар на барыш ад гандлю авечай воўнай, цукровымі буракамі і гарэлкай.
Cho nên, trong hoạt động chính trị, họ tích cực tham gia vào tất cả những biện pháp bạo lực chống giai cấp công nhân. Và trong đời sống hàng ngày của họ, mặc dù những lời hoa mỹ trống rỗng của họ, họ vẫn không bỏ qua cơ hội để lượm lấy những quả táo bằng vàng và đem lòng trung thành, tình yêu và danh dự mà đổi lấy việc buôn bán len, củ cải đường, và rượu mạnh.
Падобна да таго як поп заўсёды ішоў поруч з феадалам, папоўскі сацыялізм ідзе поруч з феадальным.
Cũng hệt như thầy tu và chúa phong kiến luôn luôn tay nắm tay cùng đi với nhau, chủ nghĩa xã hội thầy tu cũng đi sát cánh với chủ nghĩa xã hội phong kiến.
Няма нічога лягчэй, як надаць хрысціянскаму аскетызму сацыялістычнае адценне. Хіба хрысціянства не выступала таксама супраць прыватнай уласнасці, супраць шлюбу, супраць дзяржавы?
Không có gì dễ hơn là phủ lên chủ nghĩa khổ hạnh của đạo Cơ Đốc một lớp sơn chủ nghĩa xã hội, đạo Cơ Đốc chẳng phải đã cực lực phản đối chế độ tư hữu, hôn nhân và nhà nước đó sao?
Хіба яно не прапаведавала замест гэтага дабрачыннасць і жабрацтва, бясшлюбнасць і ўмярцвенне плоці, манастырскае жыццё і царкву?
Và thay tất cả những cái đó, đạo Cơ Đốc chẳng phải đã tuyên truyền việc làm phúc và sự khổ hạnh, cuộc sống độc thân và chủ nghĩa cấm dục, cuộc sống tu hành và nhà thờ đó sao?
Хрысціянскі сацыялізм — гэта толькі святая вада, якою поп кропіць азлабленне арыстакрата.
Chủ nghĩa xã hội Cơ Đốc chẳng qua chỉ là thứ nước thánh mà thầy tu dùng để xức cho nỗi hờn giận của quý tộc mà thôi.
Ь) Дробнабуржуазны сацыялізм
b) Chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản.
Феадальная арыстакратыя — не адзіны звергнуты буржуазіяй клас, умовы жыцця якога ў сучасным буржуазным грамадстве пагаршаліся і адміралі.
Giai cấp quý tộc phong kiến không phải là giai cấp duy nhất đã bị giai cấp tư sản làm phá sản; nó không phải là giai cấp duy nhất có những điều kiện sinh hoạt đang tàn lụi và tiêu vong trong xã hội tư sản hiện đại.
Сярэдневяковае саслоўе гараджан і саслоўе дробных сялян былі папярэднікамі сучаснай буржуазіі. У краінах, менш развітых у прамысловых і гандлёвых адносінах, клас гэты да цяперашняга часу яшчэ гібее побач з буржуазіяй, якая развіваецца.
Những người thị dân và tiểu nông thời trung cổ là những tiền bối của giai cấp tư sản hiện đại. Trong những nước mà công nghiệp và thương nghiệp phát triển kém hơn, giai cấp đó tiếp tục sống lay lắt bên cạnh giai cấp tư sản thịnh vượng.
У тых краінах, дзе развілася сучасная цывілізацыя, утварылася — і як дадатковая частка буржуазнага грамадства пастаянна зноў утвараецца — новая дробная буржуазія, якая хістаецца паміж пралетарыятам і буржуазіяй. Але канкурэнцыя пастаянна спіхвае належачых да гэтага класа асоб у рады пралетарыяту, і яны пачынаюць ужо бачыць набліжэнне таго моманту, калі з развіццём буйной прамысловасці яны зусім знікнуць як самастойная частка сучаснага грамадства і ў гандлі, прамысловасці і земляробстве будуць замешчаны наглядчыкамі і наёмнымі служачымі.
Trong những nước mà nền văn minh hiện đại đương phát triển thì đã hình thành một giai cấp tiểu tư sản mới, ngả nghiêng giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản; là bộ phận bổ sung của xã hội tư sản, nó cứ luôn luôn được hình thành trở lại; nhưng vì sự cạnh tranh, những cá nhân hợp thành giai cấp ấy cứ luôn luôn bị đẩy xuống hàng ngũ của giai cấp vô sản và hơn nữa là sự phát triển tiến lên của đại công nghiệp, họ thấy rằng đã gần như đến lúc họ sẽ hoàn toàn biến mất với tính cách và bộ phận độc lập của xã hội hiện đại, và trong thương nghiệp, trong công nghiệp và trong nông nghiệp, họ sẽ nhường chỗ cho những đốc công và nhân viên làm thuê.
У такіх краінах, як Францыя, дзе сялянства складае значна больш палавіны ўсяго насельніцтва, натуральна было з’яўленне пісьменнікаў, якія, становячыся на бок пралетарыяту супраць буржуазіі, у сваёй крытыцы буржуазнага ладу прыкладвалі да яго дробнабуржуазную і дробнасялянскую мерку і абаранялі справу рабочых з дробнабуржуазнага пункту гледжання.
Trong những nước như nước Pháp, ở đó nông dân chiếm quá nửa dân số thì tự nhiên đã xuất hiện những nhà văn đứng về giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, nhưng đã dùng cái thước đo tiểu tư sản và tiểu nông trong việc phê phán chế độ tư sản, và đã xuất phát từ những quan điểm tiểu tư sản mà bênh vực sự nghiệp của công nhân.
Так узнік дробнабуржуазны сацыялізм. Сісмандзі стаіць на чале гэтага роду літаратуры не толькі ў Францыі, але і ў Англіі.
Chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản đã được hình thành như thế đó. Xi-xmôn-đi là lãnh tụ của thứ văn học đó, không những ở Pháp mà cả ở Anh nữa.
Гэты сацыялізм выдатна ўмеў заўважыць супярэчнасці ў сучасных вытворчых адносінах. Ён выкрыў крывадушную апалагетыку эканамістаў.
Chủ nghĩa xã hội ấy phân tích rất sâu sắc những mâu thuẫn gắn liền với những quan hệ sản xuất hiện đại. Nó vạch trần những lời ca tụng giả dối của những nhà kinh tế học.
Ён неабвержна даказаў разбуральнае дзеянне машыннай вытворчасці і падзелу працы, канцэнтрацыю капіталаў і землеўладання, перавытворчасць, крызісы, непазбежную гібель дробных буржуа і сялян, галечу пралетарыяту, анархію вытворчасці, страшэнную няроўнасць у размеркаванні багацця, знішчальную прамысловую вайну нацый паміж сабой, разлажэнне старых звычаяў, старых сямейных адносін і старых нацыянальнасцей.
Nó chứng minh một cách không thể bác bỏ được những tác dụng phá hoại của nền sản xuất máy móc và của sự phân công lao động, sự tập trung tư bản và ruộng đất, sự sản xuất thừa, các cuộc khủng hoảng, sự sa sút không tránh được của những người tiểu tư sản và nông dân, sự cùng khổ của giai cấp vô sản, tình trạng vô chính phủ trong sản xuất, tình trạng bất công khá rõ rệt trong sự phân phối của cải, chiến tranh công nghiệp có tính chất huỷ diệt giữa các dân tộc, sự tan rã của đạo đức cũ, của những quan hệ gia đình cũ, của những tính chất dân tộc cũ.
Але па свайму станоўчаму зместу гэты сацыялізм імкнецца або аднавіць старыя сродкі вытворчасці і абмену, а разам з імі старыя адносіны ўласнасці і старое грамадства, або — зноў насільна ўціснуць сучасныя сродкі вытворчасці і абмену ў рамкі старых адносін уласнасці, адносін, якія былі ўжо імі ўзарваны і абавязкова павінны былі быць узарваны.
Nhưng xét về nội dung chân thực của nó, thì hoặc là chủ nghĩa xã hội này muốn khôi phục lại những tư liệu sản xuất và phương tiện trao đổi cũ, và cùng với những cái đó, cũng khôi phục lại cả những quan hệ sở hữu cũ và toàn xã hội cũ, hoặc là nó muốn biết những tư liệu sản xuất và những phương tiện trao đổi hiện đại phải khuôn theo cái khuôn khổ chật hẹp của những quan hệ sở hữu cũ, của những quan hệ đã bị và tất phải bị những công cụ ấy đập tan.
У абодвух выпадках ён адначасова і рэакцыйны і утапічны.
Trong cả hai trường hợp, chủ nghĩa xã hội này vừa là phản động vừa là không tưởng.
Цэхавая арганізацыя прамысловасці і патрыярхальная сельская гаспадарка — вось яго апошняе слова.
Chế độ phường hội trong công nghiệp, chế độ gia trưởng trong nông nghiệp đó là cái đích tột cùng của nó.
У далейшым сваім развіцці напрамак гэты выліўся ў баязлівае бурчанне.
Trong sự phát triển về sau của nó, trào lưu này đã biến thành những lời oán thán hèn nhát.
c) Нямецкі, або «ісцінны», сацыялізм
c) Chủ nghĩa xã hội đức hay chủ nghĩa xã hội “chân chính”
Сацыялістычная і камуністычная літаратура Францыі, якая ўзнікла пад прыгнётам пануючай буржуазіі і з’яўляецца літаратурным выражэннем барацьбы супраць гэтага панавання, была перанесена ў Германію ў такі час, калі буржуазія там толькі што пачала сваю барацьбу супраць феадальнага абсалютызму.
Văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa của nước Pháp, sinh ra dưới áp lực của một giai cấp tư sản thống trị, biểu hiện văn học của sự phản kháng chống lại nền thống trị ấy, thì được đưa vào nước Đức giữa lúc giai cấp tư sản bắt đầu đấu tranh chống chế độ chuyên chế phong kiến.
Нямецкія філосафы, паўфілосафы і аматары прыгожай фразы прагна ўхапіліся за гэту літаратуру, пазабыўшы толькі, што з перанясеннем гэтых твораў з Францыі ў Германію туды не былі адначасова перанесены і французскія ўмовы жыцця.
Các nhà triết học, các nhà triết học nửa mùa và những kẻ tài hoa ở Đức hăm hở đổ xô vào thứ văn học ấy, những có điều họ quên rằng văn học Pháp được nhập khẩu vào Đức, song những điều kiện sinh hoạt của nước Pháp lại không đồng thời được đưa vào Đức.
У нямецкіх умовах французская літаратура страціла ўсё непасрэднае практычнае значэнне і набыла выгляд чыста літаратурнай плыні. Яна павінна была набыць характар дасужага мудрагельства аб ажыццяўленні чалавечай сутнасці.
Đối với những điều kiện sinh hoạt ở Đức, văn học Pháp ấy, đã mất hết ý nghĩa thực tiễn trực tiếp và chỉ còn mang một tính chất thuần tuý văn chương mà thôi. Nó ắt phải có tính chất của một sự tự biện vô vị về sự hiện diện bản tính của con người.
Так, патрабаванні першай французскай рэвалюцыі для нямецкіх філосафаў XVIII стагоддзя мелі сэнс толькі як патрабаванні «практычнага розуму» наогул, а праяўленні волі рэвалюцыйнай французскай буржуазіі ў іх вачах мелі значэнне законаў чыстай волі, волі, якой яна павінна быць, ісцінна чалавечай волі.
Chẳng hạn, đối với những nhà triết học Đức hồi thế kỷ XVIII, những yêu sách của cách mạng Pháp lần thứ nhất chỉ là những yêu sách của những “lý tính thực tiễn” nói chung; và theo con mắt của họ, những biểu hiện của ý chí của những người tư sản cách mạng Pháp chỉ biểu hiện những quy luật của ý chí thuần tuý, của ý chí đúng như nó phải tồn tại, của ý chí thật sự con người.
Уся работа нямецкіх літаратараў заключалася выключна ў тым, каб прымірыць новыя французскія ідэі са сваім старым філасофскім сумленнем, або, правільней, у тым, каб засвоіць французскія ідэі са свайго філасофскага пункту гледжання.
Công việc độc nhất của các nhà văn Đức là điều hoà những tư tưởng mới của Pháp với ý thức triết học của mình, hay nói cho đúng hơn, là lĩnh hội những tư tưởng của Pháp bằng cách xuất phát từ quan điểm triết học của mình.
Гэта засваенне адбылося такім жа чынам, якім наогул засвойваюць чужую мову, шляхам перакладу.
Họ đã lĩnh hội những tư tưởng ấy như người ta lĩnh hội một thứ tiếng ngoại quốc thông qua phiên dịch.
Вядома, што на манускрыптах, якія змяшчалі класічныя творы язычаскай старажытнасці, манахі паверх тэксту пісалі недарэчныя жыццеапісанні каталіцкіх святых.
Ai cũng biết bọn thầy tu đã đem những chuyện hoang đường vô lý về các thánh Thiên chúa giáo ghi đầy những bản thảo các tác phẩm cổ điển thời cổ dị giáo như thế nào.
Нямецкія літаратары абышліся з нечасцівай французскай літаратурай якраз наадварот. Пад французскі арыгінал яны ўпісалі сваю філасофскую бязглуздзіцу.
Đối với văn học Pháp không có tính chất tôn giáo thì các nhà văn học Đức đã làm ngược lại. Họ luồn những điều vô lý về triết học của họ vào trong nguyên bản Pháp.
Напрыклад, пад французскую крытыку грашовых адносін яны ўпісалі «адчужэнне чалавечай сутнасці», пад французскую крытыку буржуазнай дзяржавы — «скасаванне панавання Абстрактна-Усеагульнага» і г. д.
Thí dụ, trong đoạn phê phán của Pháp đối với quan hệ tiền bạc thì họ lồng vào đó những chữ: “sự tha hoá của nhân tính”; trong đoạn phê phán của Pháp đối với nhà nước tư sản thì họ lại lồng vào đó dòng chữ: “việc xoá bỏ sự thống trị của tính Phổ biến — Trừu tượng”, v.v…
Гэта падсоўванне пад французскія тэорыі сваёй філасофскай фразеалогіі яны ахрысцілі «філасофіяй дзеяння», «ісцінным сацыялізмам», «нямецкай навукай сацыялізму», «філасофскім абгрунтаваннем сацыялізму» і г. д.
Việc thay thế triết học của Pháp bằng những lời lẽ triết học rỗng tuyếch ấy, họ gọi là “triết học của hành động”; là “chủ nghĩa xã hội chân chính”, là “khoa học Đức về chủ nghĩa xã hội”, v.v…
Французская сацыялістычна-камуністычная літаратура была такім чынам зусім выпусташана. I паколькі ў руках немца яна перастала выражаць барацьбу аднаго класа супраць другога, то немец быў перакананы, што ён узняўся вышэй «французскай аднабаковасці», што ён адстойвае, замест ісцінных патрэбнасцей, патрэбнасць у ісціне, а замест інтарэсаў пралетарыяту — інтарэсы чалавечай сутнасці, інтарэсы чалавека наогул, чалавека, які не належыць ні да якога класа і наогул існуе не ў сапраўднасці, а ў туманных нябёсах філасофскай фантазіі.
Như thế là văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa Pháp đã bị hoàn toàn cắt xén. Và vì trong tay người Đức, văn học ấy không còn là biểu hiện của cuộc đấu tranh của một giai cấp này chống một giai cấp khác nữa, cho nên họ lấy làm đắc ý là đã vượt lên trên “tính phiến diện của Pháp”; là đã bảo vệ không phải những nhu cầu thật sự, mà là nhu cầu về chân lý; không phải những lợi ích của người vô sản, mà là những lợi ích của bản tính con người, của con người nói chung, của con người không thuộc giai cấp nào, cũng không thuộc một thực tại nào, của con người chỉ tồn tại trong một bầu trời mây mù của ảo tưởng triết học mà thôi.
Гэты нямецкі сацыялізм, які лічыў свае бездапаможныя вучнёўскія практыкаванні такімі сур’ёзнымі і важнымі і так крыкліва іх рэкламаваў, страціў мала-памалу сваю педантычную нявіннасць.
Chủ nghĩa xã hội Đức ấy coi trọng những trò luyện tập vụng về của học sinh của mình một cách hết sức trịnh trọng, và phô trương những trò ấy một cách om sòm kiểu bán thuốc rong, nhưng rồi cũng mất dần tính ngây thơ thông thái rởm của mình.
Барацьба нямецкай, асабліва прускай, буржуазіі супраць феадалаў і абсалютнай манархіі — адным словам ліберальны рух — станавілася ўсё сур’ёзней.
Cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản Đức và nhất là của giai cấp tư sản Phổ chống phong kiến và chế độ quân chủ chuyên chế, tóm lại là phong trào của phái tự do, ngày càng trở nên nghiêm túc hơn.
«Ісціннаму» сацыялізму трапіўся, такім чынам, жаданы выпадак проціпаставіць палітычнаму руху сацыялістычныя патрабаванні, абвяшчаць традыцыйную анафему лібералізму, прадстаўнічай дзяржаве, буржуазнай канкурэнцыі, буржуазнай свабодзе друку, буржуазнаму праву, буржуазнай свабодзе і роўнасці і прапаведаваць народнай масе, што ў гэтым буржуазным руху яна не можа нічога выйграць, але, наадварот, рызыкуе ўсё страціць.
Thành thử chủ nghĩa xã hội “chân chính” đã được cơ hội mà nó mong mỏi từ lâu, để đem những yêu sách xã hội chủ nghĩa ra đối lập với phong trào chính trị. Nó đã có thể tung ra những lời nguyền rủa cổ truyền chống lại chủ nghĩa tự do, chế độ đại nghị, sự cạnh tranh tư sản, tự do báo chí tư sản, pháp quyền tư sản, tự do và bình đẳng tư sản; nó đã có thể tuyên truyền cho quần chúng rằng trong phong trào tư sản ấy, quần chúng không được gì cả, trái lại còn mất tất cả.
Нямецкі сацыялізм вельмі дарэчы забываў, што французская крытыка, нікчэмным адгалоскам якой ён быў, мела на ўвазе сучаснае буржуазнае грамадства з адпавядаючымі яму матэрыяльнымі ўмовамі жыцця і адпаведнай палітычнай канстытуцыяй, г. зн. якраз усе тыя прадпасылкі, аб заваёве якіх у Германіі толькі яшчэ ішла гаворка.
Chủ nghĩa xã hội Đức đã quên rất đúng lúc rằng sự phê phán của Pháp, mà chủ nghĩa xã hội Đức là một tiếng vọng nhạt nhẽo, giả định là phải có xã hội tư sản hiện đại cùng với những điều kiện sinh hoạt vật chất tương ứng với xã hội đó và một cơ cấu chính trị thích hợp — tức là tất cả những tiền đề mà nước Đức chính là vẫn đang phải giành lấy.
Нямецкім абсалютным урадам, з іх світай папоў, школьных настаўнікаў, заскарузлых юнкераў і бюракратаў, ён служыў дарэчы трапіўшым пад руку пудзілам супраць пагражальна наступаўшай буржуазіі.
Đối với nghững chính phủ chuyên chế ở Đức, cùng đám tuỳ tùng của chúng là những thầy tu, thầy giáo, bọn gioong-ke hủ lậu và quan lại thì chủ nghĩa xã hội này đã trở thành một thứ ngoáo ộp hằng ao ước để chống lại giai cấp tư sản đang là một mối lo đối với chúng.
Ён быў падсалоджаным дапаўненнем да горычы бізуноў і ружэйных куль, якімі гэтыя ўрады ўціхамірвалі паўстанні нямецкіх рабочых.
Chủ nghĩa xã hội ấy đã đem cái lối giả nhân giả nghĩa đường mật của nó bổ xung cho roi vọt và súng đạn mà những chính phủ ấy đã dùng để chấn áp những cuộc khởi nghĩa của công nhân Đức.
Калі «ісцінны» сацыялізм станавіўся такім чынам зброяй у руках урадаў супраць нямецкай буржуазіі, то ён і непасрэдна служыў выражэннем рэакцыйных інтарэсаў, інтарэсаў нямецкага мяшчанства.
Nếu chủ nghĩa xã hội “chân chính” do đó đã trở thành vũ khí trong tay các chính phủ để chống lại giai cấp tư sản Đức thì ngoài ra, nó lại còn trực tiếp đại biểu cho một lợi ích phản động, lợi ích của giai cấp tiểu tư sản Đức.
У Германіі сапраўдную грамадскую аснову існуючага парадку рэчаў складае дробная буржуазія, якая перайшла ў спадчыну ад XVI стагоддзя і з таго часу пастаянна зноў з’яўляецца ў той або іншай форме.
Giai cấp những người tiểu tư sản, do thế kỷ XVI truyền lại và từ bấy tới nay, luôn luôn tái sinh dưới nhiều hình thức khác nhau, là cơ sở xã hội thật sự của chế độ đã thiết lập ở Đức.
Захаванне яе раўназначна захаванню існуючага ў Германіі парадку рэчаў. Ад прамысловага і палітычнага панавання буржуазіі яна са страхам чакае сваёй вернай гібелі, з аднаго боку, з прычыны канцэнтрацыі капіталу, з другога — з прычыны росту рэвалюцыйнага пралетарыяту.
Duy trì giai cấp ấy, là duy trì ở Đức chế độ hiện hành. Sự thống trị về công nghiệp và chính trị của giai cấp tư sản đang đe doạ đẩy giai cấp tiểu tư sản ấy đến nguy cơ chắc chắn phải suy sụp, một mặt do sự tập trung tư bản và mặt khác do sự xuất hiện giai cấp vô sản cách mạng.
Ёй здавалася, што «ісцінны» сацыялізм адным стрэлам забівае двух зайцаў. I «ісцінны» сацыялізм распаўсюджваўся як зараза.
Đối với giai cấp tiểu tư sản, chủ nghĩa xã hội “chân chính” hình như có thể làm một công đôi việc. Cho nên chủ nghĩa xã hội chân chính đã lan ra như một bệnh dịch.
Вытканае з абстрактнага павуціння, расшытае мудрагелістымі кветкамі красамоўства, прасякнутае слязамі саладжавага замілавання, гэта містычнае покрыва, якім нямецкія сацыялісты прыкрывалі пару сваіх худасочных «вечных ісцін», толькі павялічвала збыт іх тавару сярод гэтай публікі.
Bọn xã hội chủ nghĩa Đức đã đem những tấm mạng nhện tự biện ra làm thành một cái áo rộng thùng thình thêu đầy những bông hoa từ chương mịn màng và thấm đầy những giọt sương tình cảm nóng hổi, rồi đem loại áo ấy khoác lên “những chân lý vĩnh cửu” gầy còm của họ, điều đó làm cho món hàng của họ càng được tiêu thụ mạnh trong đám khách hàng như vậy.
Са свайго боку, нямецкі сацыялізм усё больш разумеў сваё прызванне быць напышлівым прадстаўніком гэтага мяшчанства.
Còn về phần chủ nghĩa xã hội Đức thì nó dần dần hiểu rõ thêm rằng sứ mệnh của nó là làm đại diện khoa chương cho bọn tiểu tư sản ấy.
Ён абвясціў нямецкую нацыю ўзорнай нацыяй, а нямецкага мешчаніна — узорам чалавека. Кожнай яго нізасці ён надаваў патаемны, узвышаны сацыялістычны сэнс, які ператвараў яе ў нешта ёй зусім процілеглае.
Nó tuyên bố rằng dân tộc Đức là một dân tộc mẫu mực và người phi-li-xtanh Đức là một con người mẫu mực. Tất cả những cái xấu xa của những người mẫu mực ấy được nó gán cho một ý nghĩa thần bí, một ý nghĩa cao cả và xã hội chủ nghĩa, khiến cho những cái ấy biến thành những cái ngược hẳn lại.
Паслядоўны да канца, ён адкрыта выступаў супраць «груба-разбуральнага» напрамку камунізму і абвясціў, што сам ён у сваёй велічнай бесстароннасці стаіць вышэй усякай класавай барацьбы. За вельмі нямногімі выключэннямі ўсё, што цыркулюе ў Германіі ў якасці нібыта сацыялістычных і камуністычных твораў, належыць да гэтай бруднай, расслабляючай літаратуры.
Nhất quán một cách triệt để, nó phản đối xu hướng chủ nghĩa cộng sản muốn “Phá huỷ một cách tàn bạo”, và tuyên bố rằng mình vô tư đứng ở trên tất cả mọi cuộc đấu tranh giai cấp. Trừ một số rất ít, còn thì tất cả những tác phẩm tự xưng là xã hội chủ nghĩa ấy hay cộng sản chủ nghĩa lưu hành ở Đức, đều thuộc vào loại văn học bẩn thỉu và làm suy yếu con người ấy.
2. Кансерватыўны, або буржуазны, сацыялізм
II. Chủ nghĩa xã hội bảo thủ hay chủ nghĩa xã hội tư sản
Пэўная частка буржуазіі жадае вылечыць грамадскія хваробы для таго, каб умацаваць існаванне буржуазнага грамадства.
Một bộ phận giai cấp tư sản tìm cách chữa các căn bệnh xã hội, cốt để củng cố xã hội tư sản.
Сюды адносяцца эканамісты, філантропы, прыхільнікі гуманнасці, дбальнікі аб шчасці працоўных класаў, арганізатары дабрачыннасці, члены таварыстваў апекавання жывёл, заснавальнікі таварыстваў цвярозасці, нікчэмныя рэфарматары самых разнастайных відаў.
Trong hạng này, có những nhà kinh tế học, những nhà bác ái, những nhà nhân đạo chủ nghĩa, những người chăm lo cuộc cải thiện đời sống cho giai cấp lao động, tổ chức việc từ thiện, bảo vệ súc vật, lập ra những hội bài trừ nạn nghiện rượu, nói tóm lại là đủ loại những nhà cải lương hèn kém nhất.
Гэты буржуазны сацыялізм распрацоўваўся нават у цэлыя сістэмы.
Và thậm chí người ta đã xây dựng chủ nghĩa xã hội tư sản này thành một hệ thống hoàn bị.
У якасці прыкладу прывядзём «Філасофію ўбоства» Прудона.
Lấy một ví dụ là quyển “Triết học về sự khốn cùng” của Pru-đông.
Буржуа-сацыялісты хочуць захаваць умовы існавання сучаснага грамадства, але без барацьбы і небяспек, якія непазбежна з іх вынікаюць. Яны хочуць захаваць сучаснае грамадства, аднак, без тых элементаў, якія яго рэвалюцыянізуюць і разлагаюць. Яны хацелі б мець буржуазію без пралетарыяту.
Những nhà xã hội chủ nghĩa tư sản muốn duy trì những điều kiện sinh hoạt của xã hội hiện đại, mà không có những cuộc đấu tranh và những mối nguy hiểm do những điều kiện sinh hoạt ấy nhất định phải sản sinh ra. Họ muốn duy trì xã hội hiện đại nhưng được đẩy trừ hết những yếu tố đảo lộn và làm tan rã nó. Họ muốn có giai cấp tư sản mà không có giai cấp vô sản.
Той свет, у якім пануе буржуазія, вядома, здаецца ёй самым лепшым са светаў. Буржуазны сацыялізм распрацоўвае гэта суцяшальнае ўяўленне ў больш-менш цэльную сістэму.
Giai cấp tư sản tất nhiên quan niệm cái thế giới mà nó đang thống trị là thế giới tốt đẹp hơn cả. Chủ nghĩa xã hội tư sản đem hệ thống hoá ít nhiều triệt để cái quan niệm an ủi lòng người ấy.
Запрашаючы пралетарыят ажыццявіць яго сістэму і ўвайсці ў новы Іерусалім, ён па сутнасці патрабуе толькі, каб пралетарыят заставаўся ў цяперашнім грамадстве, але адкінуў сваё ўяўленне аб ім, як аб нечым ненавісным.
Khi chủ nghĩa xã hội tư sản bắt giai cấp vô sản phải thực hiện những hệ thống ấy của nó và bước vào thành Giê-ru-da-lem mới, thì thực ra, nó chỉ kêu gọi giai cấp vô sản bám lấy xã hội hiện tại, nhưng phải bỏ hết quan niệm thù hằn của họ đối với xã hội ấy.
Другая, менш сістэматычная, але больш практычная форма гэтага сацыялізму імкнулася да таго, каб унушыць рабочаму класу адмоўныя адносіны да ўсякага рэвалюцыйнага руху, даказваючы, што яму можа быць карысна не тое або іншае палітычнае пераўтварэнне, а толькі змяненне матэрыяльных умоў жыцця, эканамічных адносін.
Một hình thức khác của chủ nghĩa xã hội, ít có hệ thống hơn, nhưng lại thực tiễn hơn, cố làm cho công nhân chán ghét mọi phong trào cách mạng, bằng cách chứng minh cho họ thấy rằng không phải sự cải biến chính trị này khác, mà chỉ có sự cải tiến về điều kiện sinh hoạt vật chất, về quan hệ kinh tế mới có thể có lợi cho công nhân mà thôi.
Аднак пад змяненнем матэрыяльных умоў жыцця гэты сацыялізм разумее ні ў якім разе не знішчэнне буржуазных вытворчых адносін, ажыццявімае толькі рэвалюцыйным шляхам, а адміністрацыйныя паляпшэнні, якія ажыццяўляюцца на глебе гэтых вытворчых адносін, значыць, нічога не змяняюць у адносінах паміж капіталам і наёмнай працай, у лепшым жа выпадку — толькі скарачаюць для буржуазіі выдаткі яе панавання і спрашчаюць яе дзяржаўную гаспадарку.
Song nói sự cải biến điều kiện sinh hoạt vật chất, chủ nghĩa xã hội ấy không hề hiểu đó là sự xoá bỏ những quan hệ sản xuất tư sản, một sự xoá bỏ mà chỉ có cách mạng mới có thể làm nổi; nó chỉ hiểu đó là sự thực hiện những cải cách về hành chính ngay trên cơ sở những quan hệ sản xuất tư sản, những cải cách do đó không làm thay đổi chút nào những quan hệ giữa tư bản và lao động làm thuê nhiều lắm thì cũng chỉ làm cho giai cấp tư sản giảm được những chi phí cho việc thống trị của nó làm cho ngân sách nhà nước được nhẹ gánh mà thôi.
Самае прыдатнае для сябе выражэнне буржуазны сацыялізм знаходзіць толькі тады, калі ператвараецца ў просты аратарскі моўны зварот.
Chủ nghĩa xã hội tư sản chỉ đạt được biểu hiện thích đáng của nó, khi nó trở thành một lối nói từ chương đơn thuần.
Свабодны гандаль! у інтарэсах рабочага класа; ахоўныя пошліны! у інтарэсах рабочага класа; адзіночныя турмы! у інтарэсах рабочага класа — вось апошняе, адзіна сказанае ўсур’ёз, слова буржуазнага сацыялізму.
Mậu dịch tự do, vì lợi ích của giai cấp công nhân! thuế quan bảo hộ, vì lợi ích của giai cấp công nhân! nhà tù xà lim, vì lợi ích của giai cấp công nhân! đó là cái đích tột cùng của chủ nghĩa xã hội xã hội tư sản, điều duy nhất mà Nó nói ra một cách nghiêm túc.
Сацыялізм буржуазіі заключаецца якраз у сцвярджэнні, што буржуа з’яўляюцца буржуа,— у інтарэсах рабочага класа.
Vì chủ nghĩa xã hội tư sản nằm gọn trong lời khẳng định này: sở dĩ những người tư sản là những người tư sản, đó là vì lợi ích của giai cấp công nhân.
3. Крытычна-утапічны сацыялізм і камунізм
III. Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản không tưởng — phê phán
Мы не гаворым тут пра тую літаратуру, якая ва ўсіх вялікіх рэвалюцыях новага часу выражала патрабаванні пралетарыяту (творы Бабёфа і г. д.).
Đây không phải là nói đến một loại văn học đã đề ra, trong tất cả các cuộc cách mạng hiện đại, những yêu sách của giai cấp vô sản (tác phẩm của Ba-bớp…).
Першыя спробы пралетарыяту непасрэдна ажыццявіць свае ўласныя класавыя інтарэсы ў час усеагульнага хвалявання, у перыяд звяржэння феадальнага грамадства, непазбежна цярпелі крушэнне з прычыны неразвітасці самога пралетарыяту, а таксама з прычыны адсутнасці матэрыяльных умоў яго вызвалення, таму што гэтыя ўмовы з’яўляюцца толькі прадуктам буржуазнай эпохі.
Những mưu đồ trực tiếp đầu tiên của giai cấp vô sản để thực hiện những lợi ích giai cấp của chính mình, tiến hành trong thời kỳ sôi sục khắp nơi, trong thời kỳ lật đổ xã hội phong kiến, thì nhất định phải thất bại, vì bản thân giai cấp vô sản đang ở trong tình trạng manh nha, cũng như vì họ không có những điều kiện vật chất để tự giải phóng, những điều kiện mà chỉ có thời đại tư sản mới sản sinh ra thôi.
Рэвалюцыйная літаратура, якая суправаджала гэтыя першыя рухі пралетарыяту, па свайму зместу непазбежна з’яўляецца рэакцыйнай. Яна прапаведуе ўсеагульны аскетызм і грубую ўраўняльнасць.
Văn học cách mạng đi kèm theo những phong trào đầu tiên ấy của giai cấp vô sản, không thể không có một nội dung phản động. Nó tuyên truyền chủ nghĩa khổ hạnh phổ biến và chủ nghĩa bình quân thô thiển.
Уласна сацыялістычныя і камуністычныя сістэмы, сістэмы Сен-Сімона, Фур’е, Оўэна і г. д., узнікаюць у першы, неразвіты перыяд барацьбы паміж пралетарыятам і буржуазіяй, паказаны намі вышэй (гл. «Буржуазія і пралетарыят»).
Những hệ thống xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa chính tông, những hệ thống của Xanh-Xi-Mông, của Phu-ri-ê, của ô-oen, v.v…, đều xuất hiện trong thời kỳ đầu, chưa phát triển của cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, tức là thời kỳ đã được mô tả ở trên (xem mục “Tư sản và vô sản”).
Вынаходцы гэтых сістэм, праўда, бачаць процілегласць класаў, гэтак жа як і дзеянне разбуральных элементаў унутры самога пануючага грамадства. Але яны не бачаць на баку пралетарыяту ніякай гістарычнай самадзейнасці, ніякага ўласцівага яму палітычнага руху.
Những người phát sinh ra những hệ thống ấy, thực ra, đều thấy rõ sự đối kháng giữa các giai cấp, cũng như thấy rõ tác dụng của những yếu tố phá hoại nằm ngay trong bản thân xã hội thống trị. Song những người đó lại không thấy những điều kiện vật chất cần cho sự giải phóng của giai cấp vô sản, và cứ đi tìm một khoa học xã hội, những quy luật xã hội, nhằm mục đích tạo ra những điều kiện ấy.
Паколькі развіццё класавага антаганізму ідзе поруч з развіццём прамысловасці, то яны гэтак жа не могуць яшчэ знайсці матэрыяльных умоў вызвалення пралетарыяту і шукаюць такой сацыяльнай навукі, такіх сацыяльных законаў, якія стварылі б гэтыя ўмовы.
Месца грамадскай дзейнасці павінна заняць іх асабістая вынаходніцкая дзейнасць, месца гістарычных умоў вызвалення — фантастычныя ўмовы, месца паступова ідучай наперад арганізацыі пралетарыяту ў клас—арганізацыя грамадства па прыдуманаму імі рэцэпту.
Họ lấy tài ba cá nhân của họ để thay thế cho hoạt động xã hội, lấy những điều kiện tưởng tượng thay thế cho những điều kiện lịch sử của sự giải phóng; đem một tổ chức xã hội do bản thân họ hoàn toàn tạo ra, thay thế cho sự tổ chức một cách tuần tự và tự phát giai cấp vô sản thành giai cấp.
Далейшая гісторыя ўсяго свету зводзіцца для іх да прапаганды і практычнага ажыццяўлення іх грамадскіх планаў.
Đối với họ, tương lai của thế giới sẽ được giải quyết bằng cách tuyên truyền và thực hành những kế hoạch tổ chức xã hội của họ.
Праўда, яны ўсведамляюць, што ў гэтых сваіх планах абараняюць галоўным чынам інтарэсы рабочага класа як найбольш пакутуючага класа. Толькі ў якасці гэтага найбольш пакутуючага класа і існуе для іх пралетарыят.
Tuy nhiên, trong khi đặt ra những kế hoạch ấy, họ cũng có ý thức bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân trước hết, vì giai cấp công nhân là giai cấp đau khổ nhất. Đối với họ, giai cấp vô sản chỉ tồn tại với tư cách là giai cấp đau khổ nhất.
Аднак неразвітая форма класавай барацьбы, а таксама іх уласнае становішча ў жыцці прыводзяць да таго, што яны лічаць сябе стаячымі высока над гэтым класавым антаганізмам.
Nhưng hình thức chưa phát triển của cuộc đấu tranh giai cấp, cũng như địa vị xã hội của bản thân họ, làm cho họ tự coi là đứng hẳn ở trên mọi đối kháng giai cấp.
Яны хочуць палепшыць становішча ўсіх членаў грамадства, нават і тых, што знаходзяцца ў самых лепшых умовах. Таму яны заўсёды апелююць да ўсяго грамадства без адрознення і нават пераважна — да пануючага класа.
Họ muốn cải thiện điều kiện sinh hoạt vật chất cho hết thảy mọi thành viên trong xã hội, kể cả những kẻ đã được hưởng những điều kiện tốt nhất. Cho nên họ luôn luôn kêu gọi toàn thể xã hội, không có phân biệt gì cả và thậm chí họ còn chủ yếu kêu gọi giai cấp thống trị nhiều hơn.
На іх думку, дастаткова толькі зразумець іх сістэму, каб прызнаць яе самым лепшым планам самага лепшага з магчымых грамадстваў.
Theo ý kiến của họ thì chỉ cần hiểu hệ thống của họ là có thể thừa nhận rằng đó là kế hoạch hay hơn hết trong tất cả mọi kế hoạch về một xã hội tốt đẹp hơn hết trong tất cả mọi xã hội.
Яны адхіляюць таму ўсякае палітычнае, і ў асаблівасці ўсякае рэвалюцыйнае, дзеянне; яны хочуць дасягнуць сваёй мэты мірным шляхам і спрабуюць пры дапамозе дробных і, вядома, няўдалых вопытаў, сілай прыкладу пракласці дарогу новаму грамадскаму евангеллю.
Vì vậy, họ cự tuyệt mọi hành động chính trị và nhất là mọi hành động cách mạng, họ tìm cách đạt mục đích của họ bằng những phương pháp hoà bình, và thử mở một con đường đi tới một kinh Phúc âm xã hội mới bằng hiệu lực của sự nêu gương, bằng những thí nghiệm nhỏ, cố nhiên những thí nghiệm này luôn luôn thất bại.
Гэта фантастычнае апісанне будучага грамадства ўзнікае ў той час, калі пралетарыят яшчэ знаходзіцца ў вельмі неразвітым стане і ўяўляе сабе таму сваё ўласнае становішча яшчэ фантастычна, яно ўзнікае з першага поўнага прадчуванняў парыву пралетарыяту да ўсеагульнага пераўтварэння грамадства.
Trong thời kỳ mà giai cấp vô sản còn ít phát triển, còn nhìn địa vị của bản thân mình một cách cũng ảo tưởng, thì bức tranh ảo tưởng về xã hội tương lai là phù hợp với những nguyện vọng bản năng đầu tiên của công nhân muốn hoàn toàn cải biến xã hội.
Але ў гэтых сацыялістычных і камуністычных творах ёсць таксама і крытычныя элементы. Гэтыя творы нападаюць на ўсе асновы існуючага грамадства. Вось чаму яны далі ў вышэйшай ступені каштоўны матэрыял для асветы рабочых.
Nhưng trong những trước tác xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa đó cũng có những yếu tố phê phán. Những trước tác ấy đả kích toàn bộ cơ sở của xã hội đương thời. Do đó, chúng đã cung cấp được những tài liệu rất có giá trị để soi sáng ý thức của công nhân.
Іх станоўчыя вывады наконт будучага грамадства, напрыклад, знішчэнне процілегласці паміж горадам і вёскай, знішчэнне сям’і, прыватнай нажывы, наёмнай працы, абвяшчэнне грамадскай гармоніі, ператварэнне дзяржавы ў простае кіраванне вытворчасцю, — усе гэтыя палажэнні выражаюць толькі неабходнасць ліквідацыі класавай процілегласці, якая толькі што пачынала развівацца і была вядома ім толькі ў яе першаснай бясформеннай неакрэсленасці.
Những đề nghị tích cực của những trước tác ấy về xã hội tương lại, chẳng hạn, việc thủ tiêu sự đối kháng giữa thành thị và nông thôn, xoá bỏ gia đình, xoá bỏ sự thu lợi nhuận cá nhân và lao động làm thuê, tuyên bố sự hoà hợp xã hội và sự cải tạo nhà nước thành một cơ quan đơn thuần quản lý sản xuất, tất cả những luận điểm ấy chỉ mới báo trước rằng đối kháng giai cấp tất phải mất đi, nhưng đối kháng giai cấp này chỉ mới bắt đầu xuất hiện, và những nhà sáng lập ra các học thuyết cũng chỉ mới biết những hình thức đầu tiên không rõ rệt và lờ mờ của nó thôi.
Вось чаму і палажэнні гэтыя маюць яшчэ зусім утапічны характар.
Cho nên, những luận điểm ấy chỉ mới có một ý nghĩa hoàn toàn không tưởng mà thôi.
Значэнне крытычна-утапічнага сацыялізму і камунізму стаіць у адваротных адносінах да гістарычнага развіцця. Па меры таго як развіваецца і набывае ўсё больш выразныя формы барацьба класаў, гэта фантастычнае імкненне ўзвысіцца над ёй, гэта пераадоленне яе фантастычным шляхам пазбаўляецца ўсякага практычнага сэнсу і ўсякага тэарэтычнага апраўдання.
ý nghĩa của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản không tưởng — phê phán là theo tỷ lệ nghịch với sự phát triển lịch sử. Đấu tranh giai cấp càng gay gắt và càng có hình thức xác định thì cái ý định ảo tưởng muốn đứng lên trên cuộc đấu tranh giai cấp, cái thái độ đối lập một cách ảo tưởng với đấu tranh giai cấp ấy, càng mất hết mọi giá trị thực tiễn, mọi căn cứ lý luận của chúng.
Вось чаму, калі заснавальнікі гэтых сістэм і былі ў многіх адносінах рэвалюцыйныя, то іх вучні заўсёды ўтвараюць рэакцыйныя секты. Яны моцна трымаюцца старых поглядаў сваіх настаўнікаў, нягледзячы на далейшае гістарычнае развіццё пралетарыяту.
Cho nên, nếu như về nhiều phương diện, các nhà sáng lập ra những học thuyết ấy là những nhà cách mạng thì những tôn phái do môn đồ của họ lập ra luôn luôn là phản động, vì những môn đồ ấy khăng khăng giữ lấy những quan niệm đã cũ của các vị thầy của họ, bất chấp sự phát triển lịch sử của giai cấp vô sản.
Вось чаму яны паслядоўна стараюцца зноў прытупіць класавую барацьбу і прымірыць процілегласці.
Vì vậy, họ tìm cách, và về điểm này thì họ là nhất quán, làm lu mờ đấu tranh giai cấp và cố điều hoà các đối kháng.
Яны ўсё яшчэ мараць аб ажыццяўленні, шляхам вопытаў, сваіх грамадскіх утопій, аб устанаўленні асобных фаланстэраў, аб заснаванні ўнутраных калоній [«Home-colonies»], аб стварэнні маленькай Ікарыі — кішэннага выдання новага Іерусаліма,— і для збудавання ўсіх гэтых паветраных замкаў вымушаны звяртацца да філантропіі буржуазных сэрцаў і кашалькоў.
Họ tiếp tục mơ ước thực hiện những thí nghiệm về những không tưởng xã hội của họ lập ra từng pha-lan-xte-rơ riêng biệt, tạo ra những (“Home-colonies”), xây dựng một xứ I-ca-ri nhỏ, tức là lập ra một Giê-ru-da-lem mới tí hon — và để xây dựng tất cả những lâu đài trên bãi cát ấy, họ tự thấy buộc phải kêu gọi đến lòng tốt và két bạc của các nhà tư sản bác ái.
Яны паступова апускаюцца ў катэгорыю апісаных вышэй рэакцыйных або кансерватыўных сацыялістаў, адрозніваючыся ад іх толькі больш сістэматычным педантызмам і фанатычнай верай у цудадзейную сілу сваёй сацыяльнай навукі.
Dần dần họ rơi vào hạng những người xã hội chủ nghĩa phản động hay bảo thủ đã được miêu tả trên kia, và chỉ còn khác bọn này ở chỗ họ có một lối nói thông thái rởm có hệ thống hơn và tin một cách mê muội và cuồng nhiệt vào hiệu lực thần kỳ của khoa học xã hội của họ.
Вось чаму яны з лютасцю выступаюць супраць усякага палітычнага руху рабочых, выклікаемага, на іх думку, толькі сляпым нявер’ем у новае евангелле.
Vì vậy, họ kịch liệt phản đối mọi phong trào chính trị của công nhân, và theo họ thì một phong trào như thế chỉ có thể là do mù quáng thiếu tin tưởng vào kinh Phúc âm mới mà ra.
Оўэністы ў Англіі і фур’ерысты ў Францыі выступаюць — першыя супраць чартыстаў, другія супраць рэфармістаў.
Phái ô-oen ở Anh thì chống lại phái Hiến chương, phái Phu-ri-ê ở Pháp thì chống lại phái cải cách.
4. Адносіны камуністаў да розных апазіцыйных партый
Phần IV. Thái độ của những người cộng sản đối với các đảng đối lập
Пасля таго, што было сказана ў раздзеле II, зразумелымі з’яўляюцца адносіны камуністаў да склаўшыхся ўжо рабочых партый, г. зн. іх адносіны да чартыстаў у Англіі і да прыхільнікаў аграрнай рэформы ў Паўночнай Амерыцы.
Căn cứ theo những điều mà chúng tôi đã nói ở chương II thì thái độ của những người cộng sản đối với những đảng công nhân đã được thành lập và do đấy, thái độ của họ đối với phái Hiến chương ở Anh và phái cải cách ruộng đất ở Bắc Mỹ, tự nó cũng đã rõ rồi.
Камуністы змагаюцца ў імя бліжэйшых мэт і інтарэсаў рабочага класа, але ў той жа час у руху сённяшняга дня яны адстойваюць і будучыню руху.
Những người cộng sản chiến đấu cho những mục đích và những lợi ích trước mắt của giai cấp công nhân, nhưng đồng thời trong phong trào hiện tại, họ cũng bảo vệ và đại biểu cho tương lai của phong trào.
У Францыі, у барацьбе супраць кансерватыўнай і радыкальнай буржуазіі, камуністы прымыкаюць да сацыялістычна-дэмакратычнай партыі, не адмаўляючыся тым не менш ад права адносіцца крытычна да фраз і ілюзій, якія вынікаюць з рэвалюцыйнай традыцыі.
Ở Pháp, những người cộng sản liên hợp với Đảng dân chủ — xã hội chủ nghĩa chống giai cấp tư sản bảo thủ và cấp tiến, đồng thời vẫn dành cho mình cái quyền phê phán những lời nói suông và những ảo tưởng do truyền thống cách mạng để lại.
У Швейцарыі яны падтрымліваюць радыкалаў, не выпускаючы, аднак, з-пад увагі, што гэта партыя складаецца з супярэчлівых элементаў, часткова з дэмакратычных сацыялістаў у французскім стылі, часткова з радыкальных буржуа.
Ở Thuỵ sĩ, họ ủng hộ phái cấp tiến, nhưng không phải không biết rằng đảng này gồm những phần tử mâu thuẫn nhau, một nửa là những người dân chủ xã hội chủ nghĩa theo kiểu Pháp, và một nửa là những người tư sản cấp tiến.
Сярод палякаў камуністы падтрымліваюць партыю, якая ставіць аграрную рэвалюцыю ўмовай нацыянальнага вызвалення, тую самую партыю, якая выклікала кракаўскае паўстанне 1846 года.
Ở Ba Lan, những người cộng sản ủng hộ chính đảng đã coi cách mạng ruộng đất là điều kiện để giải phóng dân tộc, nghĩa là chính đảng đã làm cuộc khởi nghĩa Cra-cốp năm 1846.
Advertisement